Các phương pháp đo độ cứng vật liệu

Độ cứng là một thuộc tính cơ bản của vật liệu,  thuật ngữ độ cứng phản ánh tính chịu uốn, mài mòn, trầy xước của vật.  Cùng với sự phát triển của khoa học vật liệu đã có rất nhiều phương pháp  đo độ cứng ra đời. Bài viết này xin giới thiệu một số phương pháp đo độ  cứng thường được biết đến, đặc biệt ứng dụng cho lĩnh vực vật liệu kim  loại.  Phương pháp đo độ cứng theo vết xước  Được  xác định bằng cách so sánh độ cứng của khoáng vật cần biết với mẫu  chuẩn, dựa trên tính chất khoáng vật có độ cứng lớn hơn sẽ làm trầy 
khoáng vật có độ cứng nhỏ hơn, thông thường theo thang độ cứng của Môxơ  (F. Mohs; nhà khoáng vật học Đức). Thang đo độ cứng Mohs dựa trên mười  loại khoáng vật đã có sẵn, ngoại trừ kim cương. Theo đó, vật liệu mền  nhất là Tan, vật liệu cứng nhất là kim cương. Thang đo độ cứng tương đối  này mang nhiều tính hạn chế trong thực tiễn sử dụng, không cung cấp  được kết quả chính xác và không phù hợp với các loại kim loại, vật liệu  hiện đại.


Độ cứng thang Mohs
Khoáng vật
1
Tan (Mg3Si4O10(OH)2)
2
Thạch cao (CaSO4•2H2O)
3
Đá canxit (CaCO3)
4
Đá fluorit (CaF2)5Âptit (Ca
5
(PO4)3(OH-,Cl-,F-))
6
Ôctcla felspat (KAlSi3O8)
7
Thạch Anh (SiO2)
8
Topaz (Al2SiO4(OH-,F-)2
9
Corundum  (Al2O3)
10
Kim cương (C)
Ngày  nay, các phương pháp đo độ cứng thường sử dụng một đầu thử (có hình  dạng đặc biệt và có độ cứng hơn mẫu đo) ấn tác động lên bề mặt mẫu thử.  Theo đó trị số độ cứng được tính toán trên cơ sở lực tác động và độ sâu  hoặc kích cỡ của vết lõm. Có 3 phương pháp đo độ cứng được biết đến  nhiều nhất là là Brinell, Vicker và Rockwell: Phương pháp đo độ cứng Brinell:  là phương pháp đo độ cứng do  J.A. Brinell đưa ra vào năm 1900, sử dụng  một viên bi thép đk 10mm với lực ấn 3000 kg ấn lõm vào bề mặt kim loại.  Đối với các kim loại mềm, lực ấn sẽ được giảm xuống 500kg, và đối với  các kim loại cực cứng, sẽ sử dụng đến bi thử cardbide tungsten giám  thiếu biến dạng đầu thử. Lực tác động toàn phần sẽ  được duy trì trong khoảng 10 - 15 giây đối với thử độ cứng của gang và  thép, và tối thiểu 30 giây với các kim loại khác. Đường kính của vết lõm  trên bề mặt vật liệu thử được đo bằng kính hiển vi. Độ cứng Brinell  được xác định theo công thức:




Thông số độ cứng Brinell thường được viết liền với  các điều kiện thử. Ví dụ 75HB 10/500/300 có nghĩa là độ cứng Brinel 75  đo được khi sử dụng bi thử đường kính 10mm, lực thử 500 kg tác động  trong vòng 30 giây. So với các phương pháp thử độ  cứng khác, bi thử Brinell tạo ra vết lõm sâu và rộng nhất, do đó phép  thử sẽ bình quân được độ cứng trên một phạm vi rộng hơn của vật đo. Đây  là phương pháp tối ưu để đô độ cứng khối hoặc hoặc độ cứng tổng thể của  một loại vật liệu, đặc biệt là vật liệu có cấu trúc không đồng đều. Các  vết xước và độ nhám bề mặt hầu như không ảnh hưởng tới phép thử Brinell.  Các giá trị BHN tiêu biểu là Nhôm 35MPa, thép gió 120Mpa, thép không gỉ  1250Mpa. Tuy nhiên phương pháp thử này không phù hợp với đo các vật thể  nhỏ. Phương pháp đo Độ cứng Vicker:  được phát triển vào những năm 1920. Các tính toán của phương pháp thử  Vicker không thuộc với kích cỡ của đầu thử. Đầu thử có thể sử dụng cho  mọi loại vật liệu. Phép thử sử dụng một mũi thử kim cương hình chóp 4  cạnh có góc giữa các mặt phẳng đối diện là 136o. Góc này xấp xỉ tỷ lệ lý  thuyết của đường kính vết lõm với đường kính bi thử trong phương pháp  thử Brinell. Giá trị độ cứng (thường phiên âm DPH, VHN hoặc VPH) xác  định bằng lực tác động chia cho diện tích mặt lõm theo công thức

Phương pháp thử này có thể sử dụng cho tất cả các loại kim loại. Với một  lực thử cho trước, nó cho kết quả một thang đo liên tục, từ kim loại  mềm là 5DPH tới các kim loại cứng là 1500 DPH. Phương pháp đo độ cứng Rockwell:  là phương pháp đo độ cứng bằng cách tác động làm lõm vật thử với một  đầu thử kim cương hình nón hoặc bi thép cứng. Quy trình đo cơ bản như  sau : tác động đầu thử vào vật mẫu với một lực tối thiểu, thường là  10kgf. Khi đạt độ cân bằng, thiết bị đo (theo dõi dịch chuyển đầu đo và  các phản hồi về thay đổi chiều sâu tác động của đầu đo) ghi lại giá trị  xác định. Tiếp đến, trong khi vẫn duy trì lực tác động tối thiểu, người  ta tác động thêm một lực tối đa. Khi đạt được độ cân bằng, thôi tác động  lực tối đa nhưng vẫn duy trì lực tác động tối thiểu ban đầu. Khi lực  tối đa được thu về, độ sâu vết lõm trên bề mặt vật thử sẽ được phục hồi  một phần. Độ sâu vết lõm còn lại (kết quả của phát và thu lực tối đa)  được sử dụng để tính toán độ cứng Rockwell.

Có nhiều thang đo độ cứng Rockwell, ký hiệu là RA, RB, RC, ... tuỳ thuộc  vào loại và kích thước đầu đo cũng như giá trị lực tác dụng được sử  dụng.
HRA . . . . carbides, thép tôi cứng bề mặt
HRB . . . . Phôi đồng đỏ, thép mềm, phôi nhôm, gang mềm...
HRC . . . . Thép, gang cứng , thép tôi hoặc các vật liệu cứng hơn 100 HRB
HRD . . . . Thép mỏng, gang mềm HRE . . . . Gang, nhôm , kim loại ổ bi
HRF . . . . Kim loại tấm có chiều dầy mỏng
HRG . . . . Đồng phốtpho, beryllium copper,Thiếc, chì ...
HRK . . . . }
HRL . . . . }
HRM . . . .} . . . . Kim loại ổ bi mềm, nhựa, các vật liệu cực mỏng
HRP . . . . }
HRR . . . . }
HRS . . . . }
HRV . . . . }
Ví  dụ như thép tôi được thử ở thang đo C với đầu thử kim cương và lực tác  động tối đa 150kg sẽ nẵm trong khoảng  RC 20 tới RC 70. Với các vật liệu  mềm hơn được thử ở thang đo B bi thử đk 1/16 inch và lực thử tối đa 100  kg, kết quả đo trong phạm vi RB 0 tới RB100. Thang đo A (với đầu thử  kim cương và lực thử tối đa 60kg) thường dùng dải phạm vi vật liệu đồng  nhiệt luyện tới carbide. Kiểm tra độ cứng theo phương  pháp Rockwell cho kết quả nhanh và chính xác. Vết lõm bằng phương pháp  thử này thương nhỏ, do đó chi tiết sau nhiệt luyện có thể thử độ cứng  bằng phương pháp này mà không bị hư hại. Các thiết  bị đo độ cứng Rockwell có công suất phát lực thử tới 103N (100kg) có  khả năng tạo một điểm lõm trên các vật liệu thử. Các thiết bị đo hiện  đại có thể sử dụng các công nghệ điện tự và tự động để tối ưu tính  năng.  Người sử dụng cũng có thể sử dụng kính hiển vi để định vị đầu đo  kim cương cực nhỏ để xung lực chỉ vài N để đo độ cứng của một hạt kim  loại.  Đây còn được biết đến như các phép thử độ cứng tế vi (micro  harness).

Nguồn (Sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã đọc bài đăng.
Dùng email thật để comment để bạn có thể nhận thông tin khi có ai trả lời comment của bạn.
Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu và để lại Quý danh khi gửi nhận xét.